Bài viết mới nhất
Tất cả bài viết
-
▼
2015
(47)
-
▼
tháng 7
(47)
- Nguồn gốc của hệ thống pháp luật của Nhật Bản
- Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật N...
- Cấu trúc và nguồn pháp luật ở một số quốc gia Hồi ...
- Khái quát pháp luật các quốc gia Hồi giáo
- Cơ cấu kinh tế Trung Quốc có sự chuyển dịch theo h...
- Giới thiệu khái quát về các quốc gia Hồi giáo và l...
- Sự thích ứng của luật Hồi giáo với thế giới hiện đại
- Nguồn của luật Hồi giáo – Qias
- Sunna và ljma
- Nguồn của luật Hồi giáo – Kinh Koran
- Sự hình thành và phát triển của luật Hồi giáo
- Các chế độ hồi giáo hình thành trên toàn Thế Giới
- Sự hình thành kỉ nguyên Hồi giáo
- Người Hồi giáo thường tự bào chữa tội trạng
- Tội phạm và hình phạt trong luật Hồi giáo
- Một số đặc điểm của luật Hồi giáo
- Giới thiệu về Luật Hồi giáo
- Nguồn của các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ phá...
- Hồi giáo và khái niệm của hồi giáo
- Đặc điểm chung của hệ thống tổ chức toà án ở các n...
- Pháp luật XHCN trong thởi kì kế hoạch hóa
- Hiến pháp của thởi kì đổi mới
- Giai đoạn xây dựng trang trại tập thể (Collectivis...
- Giai đoạn từ năm 1917 đến 1945
- Pháp luật truyền thống của các nước XHCN châu Á
- Pháp luật thành văn ở Nga
- Nhận xét về pháp luật truyền thống Nga năm 1917
- Cắt đứt quan hệ giữa Nga với Napoleon
- Nước Nga lạc hậu so với các nước phương Tây
- Pháp luật truyền thống ở các nước XHCN
- Nghề luật ở Mỹ cạnh tranh cao
- Hành nghề luật sư ở Mỹ
- Phương pháp tình huống luật
- Phương pháp giảng dạy luật được sử dụng ở Mỹ
- Các văn bản dưới luật do cơ quan hành
- Hiến pháp Mỹ được ban hành năm 1789
- Án lệ ở Mỹ khác với án lệ ở Anh
- Thủ tục tố tụng luật định theo Hiến pháp Mỹ
- Sự phân biệt giữa nguyên tắc tố tụng hình sự hiện ...
- Hệ thống toà án Liên bang
- Hệ thống toà án bang
- Toà án tối cao Liên bang
- Toà án kinh lí phúc thẩm liên bang
- Hệ thống toà án và tố tụng
- Cơ quan lập pháp liên bang – Quốc hội
- Sự đấu tranh giữa ủng hộ common law của Anh và ủng...
- Sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Mỹ
-
▼
tháng 7
(47)
Được tạo bởi Blogger.
Thứ Năm, 23 tháng 7, 2015
Tuy nhiên, sau Chiến tranh thế giới
lần thứ II, công cuộc đại cải tổ pháp luật ở Nhật Bản đã được tiến hành. Cuộc
cải tổ diễn ra do tinh thần dân chủ hoá của người Mỹ thúc đẩy, đúng hơn là do
sự chủ động và sáng tạo của người Nhật, vì vậy kết quả là hệ thống pháp luật
của Nhật sau cải tổ đã ít nhiều chịu anh hưởng từ hệ thống pháp luật Mỹ. Cuộc
cải tổ đã cho ra đời Hiến pháp mới năm 1946 với sự trợ giúp của người Mỹ để
thay thế Hiến pháp năm 1889; đã đổi mới tổ chức hành chính nhà nước, thẩm quyền
quản lí nhà nước; đã đổi mới cả thủ tục tố tụng và hệ thống toà án của đất nước
này.
Một số đạo luật thuộc mảng luật công đang có hiệu lực lúc đó đã
được ban hành mới, tiếp thu kinh nghiệm của người Mỹ. Hiến pháp và Bộ luật tố
tụng hình sự là những minh chứng điển hình cho xu thế này. Đây là những thành
tố quan trọng của hệ thống pháp luật nhằm bảo vệ quyền con người ở Nhật Bản, đã
được xây dựng và hoàn thiện theo mô hình pháp luật của Mỹ do quan hệ mật thiết
giữa Nhật và Mỹ lúc bấy giờ.
Có thể nói, từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, ảnh hưởng của
hệ thống pháp luật của Mỹ đối với hệ thống pháp luật của Nhật Bản có những lúc
ở vào thế cạnh tranh với sự ảnh hưởng đó của Pháp và Đức trong quá khứ.
Vì vậy, ngày nay khó có thể xác định một cách chính xác liệu cội nguồn hệ
thống pháp luật Nhật Bản đến từ đâu, từ dòng họ civil law hay dòng họ
common law. Có lẽ, sẽ không phải là vô căn cứ nếu cho rằng hệ thống pháp luật
Nhật Bản là sự lai tạp giữa hai dòng họ pháp luật: common law và civil law.
Bất kể những biến chuyển của hệ thống pháp luật, xã hội Nhật Bản
vẫn khác xa xã hội phương Tây. Những thói quen và nếp tư duy cũ vẫn tiếp tục
tồn tại trong đại bộ phận dân cư Nhật Bản, thậm chí trong tầng lớp dân thành
thị, trong giai cấp công nhân và tiểu thương. Chủ nghĩa tư bản nhà nước đã được
phát triển nhờ vào giới doanh gia chiếm số ít trong xã hội chứ không phải do
giai cấp nông dân và công nhân chiếm số đông. Đại đa số người Nhật, cho tới
nay, vẫn chưa nhận thức được rằng họ được làm chủ vận mệnh của mình, vẫn không
thích tham gia vào các các lĩnh vực hoạt động công quyền (public affairs) và có
xu hướng thích giao phó những công việc đó cho thiểu số người có quyền lực
trong xã hội. Quan điểm phổ biến đó của người Nhật đã làm cho các cơ quan nhà
nước có xu hướng tùy tiện hơn trong việc thực thi chức năng của mình. Vi dụ:
trái với các thẩm phán của các nước phương Tây, giới thẩm phán Nhật Bản rất
tiết kiệm lí lẽ khi viết án vì họ cho rằng không cần thiết phải lập luận, biện
minh cho phán quyết mà họ đưa ra khi kết thúc công việc xét xử; quyền giám sát
tư pháp của Toà án tối cao của Nhật về tính hợp hiến của các văn bản pháp luật,
mặc dù là quyền hiến định, chỉ được thực thi một cách hết sức cần trọng
với lí do ngại động chạm tới những vấn đề chính trị nhạy cảm.. Hơn nữa,
người Nhật còn có thói quen, thậm chí có thể nói là văn hoá, né tránh
kiện tụng vì cho rằng sự xuất hiện trước toà, ngay cả trong các vụ việc dân sự,
cũng làm ảnh hưởng xấu tới danh dự của họ. Vì vậy, những công dân tốt có xu
hướng tránh xa pháp luật, coi pháp luật là cái g dỏ gắn kết với hình phạt, với
nhà tù, với sự ô danh… và là cái mà họ không mong muốn phải động chạm tới. Trên
thực tế, họ có xu hướng lựa chọn cách giải quyết những khúc mắc của mình bằng
con đường hoà giải hơn là bằng con đường tranh tụng tại toà.
Từ khóa tìm kiếm nhiều: bai giang luat so sanh
Nhãn:
Luật so sánh
|
0
nhận xét
Nhật Bản ngày nay là một trong những nước hiện đại hoá và công
nghiệp hoá hàng đầu trên thế giới. Tuy nhiên, trong lịch sử, Nhật Bản đã duy
trì chính sách tự cô lập trong vài thế ki, vì vậy, cho tới giữa thế ki XIX, đất
nước này vẫn hầu như không có mối liên hệ nào với thế giới phương Tây.
Từ thế kỉ thứ V, Nhật Bản bắt đầu chịu ảnh hưởng của Trung Quốc,
khởi đầu là chữ viết, rồi đến tôn giáo, văn hoá, nghệ thuật và cả pháp luật.
Những đạo luật đầu tiên được ban hành ở Nhật Bản được xây dựng trên cơ sở học
hỏi kinh nghiệm của Trung Quốc, vì vậy có rất nhiều điểm tương đồng với các đạo
luật triều nhà Đường ở Trung Quốc (từ năm 618 – 907). Thậm chí người Nhật còn
tổ chức lại Nhà nước theo mô hình nhà nước phong kiến Trung Quốc.
Trong giai đoạn từ thế kỉ XVII đến giữa thế kỉ XIX, Nhật Bản đã
duy trì chính sách bế quan tỏa cảng, nội bất xuất, ngoại bất nhập, tuy nhiên
chính sách này không áp dụng đối với Trung Quốc (quốc gia vốn đã có quan hệ
thương mại lâu đời với Nhật Bản) và Hà Lan. Riêng đối với người Hà Lan, trong
trạng thái cành giác cao độ, Chính phủ Nhật Bản chỉ cho phép họ ra, vào một vài
hải cảng với mục đích duy nhất là thương mại.
Tuy nhiên, sau đó, nhu cầu học hỏi văn minh phương Tây đã làm
người Nhật nới lỏng chính sách cấm du nhập văn hoá phương Tây vào trong nước.
Vì vậy, tới đầu thế kỉ XVIII, sách báo và công nghệ phương Tây đã đóng vai trò
đáng kể trong sự nghiệp công nghiệp hoá ở Nhật Bản. Sang đến thế ki XIX, chính
sách tự cô lập của Nhật Bản đã không thể tiếp tục duy trì và Nhật Bản buộc phải
kí những hiệp ước bất bình đẳng với một số cường quốc phương Tây như Mỹ, Anh,
Nga, Pháp và Hà Lan, theo đó Nhật Bản phải từ bỏ quyền đánh thuế nhập khẩu,
phải cho phép người nước ngoài định cư ở những thành phố nhất định để tự do
buôn bán và cho phép các nước nói trên đặt lãnh sự quán ở Nhật Bản…
Thời Minh Trị, cơ cấu cổ xưa của xã hội Nhật Bản đã biến mất do
sự tái thiết một cách hoàn toàn xã hội Nhật Bản: nhà nước dân chủ phương Tây đã
được thiết lập thay thế cho nhà nước phong kiến trước đây và sự phát triển kinh
tế với tốc độ nhanh chóng đã đặt Nhật Bản vào vị trí hàng đầu của các quốc gia
thương mại trên thế giới. Tư tưởng pháp lí, văn bản pháp luật và dường như toàn
bộ xã hội Nhật Bản trong giai đoạn này đã bị Âu hoá. Để hiện đại hoá pháp luật,
người Nhật cho rằng việc pháp điển hoá và ban hành hàng loạt bộ luật sẽ dễ dàng
gặt hái thành công hơn là việc quay sang tiếp nhận common law. Vì vậy, từ cuối
thập kỉ thứ 6 của thế kỉ thứ XIX, các bộ luật của Pháp và Đức và một số cường
quốc ở châu Âu đã được biên dịch ở Nhật Bản. Các Bộ luật hình sự, Bộ luật tố
tụng hình sự của Nhật đều được soạn thảo dựa trên khuôn mẫu của Pháp; Bộ luật
dân sự, luật tố tụng dân sự và luật tổ chức hệ thống toà án của Nhật được ban
hành dựa vào kinh nghiệm của một số nước châu Âu trong đó chịu ảnh hưởng lớn
nhất từ luật của Đức… Nói cách khác, hệ thống pháp luật của các nước phương Tây
đã trở thành hình mẫu cho hệ thống pháp luật Nhật Bản trong giai đoạn này.
Nhãn:
Luật so sánh
|
0
nhận xét
Thứ Tư, 22 tháng 7, 2015
Arập Xêút là vùng đất khai sinh ra đạo Hồi, nơi có các thánh địa
Mecca và Medina. Đạo Hồi ở đây được thiết lập một cách vững chắc với sự cai trị
của một nhà nước dựa trên cơ sở diễn giải leo từng chữ kinh Koran và luật
Shariah. Dưới sự chi phối của ở, kịch, phim ảnh, rượu và sự chung đụng quá mức
giữa hai giới bị cấm. Arập Xêút đang phấn đấu để vừa trở thành quốc gia hiện
đại đồng thời lại vừa là nước Hồi giáo bảo thủ. Hệ thống pháp luật Arập Xêút
hoàn toàn dựa trên luật Hồi giáo và gồm ba bộ phận: bộ phận thứ nhất là luật
Hồi giáo không được pháp điển trả theo học thuyết Hồi giáo truyền thống, bộ
phận thứ hai là luật hành văn thể chế hoá những quy định của luật Hồi giáo, bộ
phận thứ ba là các văn bản pháp luật điều chỉnh những vấn đề mà luật hồi giáo
không điều chỉnh.
Iran vào đầu những năm 80 của thế kỉ trước là ví dụ điển hình và
sự phục hưng Hồi giáo. Cuộc cách mạng dưới sự lãnh đạo là Ayatollah Khomeini đã
lật đổ quốc vương Muhammad vào năm 197, nước “Cộng hoà Hồi giáo” được thành
lập, sau đó Shariah trở thành chuẩn mực và các giáo sĩ như homeini giữ một vai
trò quyết định.
Hệ thống pháp luật Iran mang tính hỗn hợp, vừa chịu ảnh hưởng của
luật Hồi giáo vừa chịu ảnh hưởng của pháp luật châu Âu lục địa. Iran là một
trong số ít các nước Hồi giáo không bị thuộc địa hoá một cách trực tiếp. Quá
trình “phương Tây hoá” ở Iran bắt đầu từ năm 1906 khi thông qua hiến pháp dựa
trên hình mẫu của Pháp và của Bỉ. Sau cải cách những năm 1920-1930, lĩnh
vực ảnh hưởng của luật Hồi giáo ở Iran bị thu hẹp lại, học thuyết pháp lí Hồi
giáo chỉ có tác động đến các quy định về thân nhân. Sau Cách mạng nhân dân năm
1971, ở Iran diễn ra quá trình Hồi giáo hoá toàn bộ hệ thống pháp luật.
Hiến pháp Iran ban hành năm 1979 và được sửa đổi năm 1989 khẳng
định tất cả các văn bản pháp luật đều phải tuân theo Shariah. Các văn bản pháp
luật theo hình mẫu phương Tây bị sửa đổi theo các quy định của đạo Hồi. Pháp
luật dân sự của Iran mang tính hỗn hợp, vấn đề thân nhân hôn nhân gia đình và
thừa kế được điều chỉnh bằng luật Hồi giáo, các chế định còn lại chịu ảnh hưởng
của truyền thống pháp luật châu Âu lục địa – cơ bản là theo hình mẫu Pháp. Bộ
luật dân sự Iran gồm ba quyển và được thông qua năm 1929 (Quyển I), 1934 (Quyển
II), 1935 (Quyển III).
Bộ luật hình sự Iran được thông qua năm 1926, cơ bản dựa trên Bộ
luật dân sự Pháp năm 1810 trong đó ghi nhận những hành vi bị coi là phạm tội
theo luật Hồi giáo sẽ chịu chế tài theo luật Hồi giáo. Trong những năm 80 của
thế kì XX diễn ra cải cách pháp luật hình sự Iran và năm 1988 Bộ luật hình sự
mới được thông qua với việc tiếp nhận các chế tài theo luật Hồi giáo cho ba
loại tội phạm theo Shariah.
Đến đầu thế ki XX, luật Hồi giáo giữ vị trí thống trị ở
Afghanistan. Năm 1928, Afghanistan tuyên bố hiệu lực của Shariah trong hoạt
động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Năm 1976, thông qua Bộ luật dân sự về cơ
bản giống với Bộ luật của Ai Cập, Angieri, Xiri, Iraq nhưng có điểm khác là nó
điều lĩnh các quan hệ hôn nhân gia đình, thừa kế. Điều 1 Bộ luật dân sự quy
định trong trường hợp pháp luật không điều chỉnh, thẩm vấn áp dụng luật Hồi
giáo.
Luật hình sự của Afghanistan hoàn toàn dựa trên Shariah, tất
cả các văn bản đều phải dựa trên Shariah một cách nghiêm ngặt, bộ luật
hình sự thông qua năm 1976 chịu ảnh hưởng của pháp luật hình sự châu Âu lục địa
với sự khác biệt là trong đó đưa ra khả năng áp dụng các hình phạt theo luật
Hồi giáo (Điều 1) với cac tội như giết người, cướp, sử dụng đồ uống có cồn, ăn
trộm…
Trong số các nước Hồi giáo, Thổ Nhĩ Kì là một trường hợp đặc biệt.
Thổ Nhĩ Kì không phải là nước Ả rập và có mối liên hệ lặt chẽ về kinh tế và
chính trị với Tây Âu. Cách mạng Kemalist ím 1926 tạo thuận lợi cho Thổ Nhĩ Ki
tiếp nhận Bộ luật dân sự Thụy Sĩ. Luật về nhân thân, gia đình, thừa kế của nước
này theo hình mẫu phương Tây. Pháp luật Thổ Nhĩ Kì không chấp nhận chế độ đa
thê, quyền đơn phương bỏ rơi vợ của người chồng hoặc việc phân chia tài sản
thừa kế không công bằng giữa con trai và con gái. Khó có thể nói rằng ở các
nước Hồi giáo diễn ra cuộc cải cách pháp luật theo hướng phương Tây hoá. Hiện
tại chưa có nước Hồi giáo nào mạnh dạn đi theo hình mẫu của Thổ Nhĩ Kì.
Từ khóa tìm kiếm nhiều: giao trinh luat so sanh
Nhãn:
Luật so sánh
|
0
nhận xét
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)